Có người bảo tôi rằng: “Ngồi mà kể lại những miếng ngon Hà Nội thì biết đến bao giờ mới hết?”
Thật thế, món ngon Hà Nội kể ra còn nhiều, nhưng ngồi mà nhẩm ra thì những món ngon đặc biệt Hà Nội cũng chẳng còn bao lăm nữa.
Ấy là vì Hà Nội 1953 đã thay đổi khác đi nhiều rồi, cũng như hầu hết các nơi. Sau một trận chiến tranh khốc hại, có nhiều món ngon đã mất hẳn như bánh ngỗng (áo bằng bột tẻ, nhân bằng thịt thăn, gia mộc nhĩ), bánh xèo; có nhiều món ngon nhưng bây giờ hiếm, lựa là kể tới, như bánh bò, bánh bèo, bánh xâm, bánh củ gừng; lại cũng có nhiều món ngon khác nữa, kể cũng thú lắm nhưng không... tiện nói ra như cái món “mộc tồn” chẳng hạn.
Để bù vào chỗ đó, bây giờ phố xá Hà Nội có những món ngon mới, hầu hết là lai Tây hay lai Tàu, như món thịt bò khô gồm đu đủ thái nhỏ, mùi và giấm, “lạp chín chương”, ăn vào thấy đủ các vị cay, chua, mặn, chát, món bánh “đùi gà” làm bằng bột mì và đậu xanh (rán mỡ), món mơ, mận, táo, khế ngâm nước đường (áng chừng ăn vào mát giọng nói trơn như khướu!); món cháo tiết dùng với “dồi chao quảy”, một đồng một bát; món bánh cari nếm thử một miếng cay cứ như nhai ớt; món phở Lạng Sơn ăn chua lòm lòm...
Thật thế, món ngon Hà Nội kể ra còn nhiều, nhưng ngồi mà nhẩm ra thì những món ngon đặc biệt Hà Nội cũng chẳng còn bao lăm nữa.
Ấy là vì Hà Nội 1953 đã thay đổi khác đi nhiều rồi, cũng như hầu hết các nơi. Sau một trận chiến tranh khốc hại, có nhiều món ngon đã mất hẳn như bánh ngỗng (áo bằng bột tẻ, nhân bằng thịt thăn, gia mộc nhĩ), bánh xèo; có nhiều món ngon nhưng bây giờ hiếm, lựa là kể tới, như bánh bò, bánh bèo, bánh xâm, bánh củ gừng; lại cũng có nhiều món ngon khác nữa, kể cũng thú lắm nhưng không... tiện nói ra như cái món “mộc tồn” chẳng hạn.
Để bù vào chỗ đó, bây giờ phố xá Hà Nội có những món ngon mới, hầu hết là lai Tây hay lai Tàu, như món thịt bò khô gồm đu đủ thái nhỏ, mùi và giấm, “lạp chín chương”, ăn vào thấy đủ các vị cay, chua, mặn, chát, món bánh “đùi gà” làm bằng bột mì và đậu xanh (rán mỡ), món mơ, mận, táo, khế ngâm nước đường (áng chừng ăn vào mát giọng nói trơn như khướu!); món cháo tiết dùng với “dồi chao quảy”, một đồng một bát; món bánh cari nếm thử một miếng cay cứ như nhai ớt; món phở Lạng Sơn ăn chua lòm lòm...
Hay lắm. Mỗi ngày thêm một vị mới để mà đổi giọng  đi cho hợp với thời đại, cái đó cũng chẳng có hại gì... có thứ thì bắt  chước Tàu, có thứ thì bắt chước Tây, có thứ lại quảng cáo ăn ngon như đồ  Mỹ, đồ Anh, nhưng rút cục lại Hà Nội còn có một món quà, không theo ai  cả, đặc biệt Việt Nam, mà tôi dám chắc không có người Việt Nam nào không  ăn, mà tôi lại dám chắc thêm rằng không có người Việt Nam nào không  thích: đó là quà bún. 
* * *
Bún, nhưng mà bún gì? 
Quà  bún có cả một trăm thứ, nhưng ai đã ở Hà Nội, ai đã đi qua Hà Nội, làm  sao mà quên được thứ quà bún phổ thông nhất, bán với cái giá bình dân  nhất, ăn một miếng mà nhớ đến một năm, là thứ quà bún chả?
Không  một nẻo đường đông đúc nào của Hà Nội không có thứ quà này. Nhất là ở  các chợ thì lại càng nhiều lắm. Ai cũng ăn chơi. Không nhiều đâu với  đồng tiền bây giờ chỉ năm đồng bạc, ta đã có thể có một mẹt bún thật  ngon, vừa dễ ăn mà lại vừa mát ruột, ăn tiện đáo để, không có phiền  toái, nhiêu khê gì hết.
Người bán hàng xếp những lá bún nóng muốt  vào trong một cái mẹt con trên trải một mảnh lá chuối xanh non, rồi gắp  rau vào đó. Mấy cái rau xà lách, vài ngọn thơm, mấy cánh mùi: chỉ có thế  thôi, nhưng lạ một điều là chưa đụng đến đũa, ta đã thấy thèm rồi, thèm  quá, tưởng chừng như phải đợi lâu hơn một chút, không thể nào chịu  được.
Ấy chính là vì trong khi ta ngồi nhìn người bán hàng gắp  rau xanh ong óng để xen vào những lá bún trắng tinh thì mùi thơm của chả  nướng đã cám dỗ khứu giác của ta mất rồi! Cái mùi quái lạ thay, nó tỏa  ra trong không khí sao mà bay đi xa đến thế!
Ngồi ở trong nhà  giữa phố, ta có thể ngửi thấy mùi thơm những gắp chả của hàng bún đỗ ở  cuối phố nó bay đến nịnh nọt và khiêu khích những vị dịch tuyến của ta. 
Mùi  thơm quái ác, mùi thơm huyền ảo, nó làm cho ta nhớ đến nhiều kỷ niệm  thiếu thời, lúc ta hãy còn ở trong những căn nhà cổ tối tăm như hũ, trưa  trưa thì mẹ lại gọi hàng bún chả quen ở hàng Bông Nệm hay ở đầu ngõ Tô  Tịch lại để cho con mỗi đứa một mẹt hai xu. 
Thời kỳ đó xa xôi  lắm rồi, nhưng vị ngon của bún thì không sao quên được. Bao nhiêu năm đã  trôi qua? Đời người ta đã ăn bao nhiêu ngàn, vạn mẹt bún chả rồi?
Ấy  thế mà cho đến tận bây giờ, cứ hồ ngửi thấy mùi thơm của chả quạt ngoài  đường hay trông thấy mẹt bún óng mềm, giữa có một chén nước mắm trong  đựng mươi miếng chả thì ta vẫn cứ thấy còn thèm và đôi khi không nhịn  được, phải tạt vào nhà bạn hữu nào gần đó bảo làm ngay một mẹt ăn chơi  cho thỏa.
Bún thì nhỏ sợi mà trắng, rau rửa sạch trông cứ mát lì  đi, chấm nước mắm thật ngon, rắc một chút hạt tiêu và điểm dăm ba nhát  ớt, tất cả mấy thứ đó nổi hẳn vị lên nếu ta biết cách ăn điểm vào cho  thật đúng lúc những miếng chả nướng vừa vặn một cách thần tình.
Có  hai thứ chả: băm và nướng. Muốn ăn riêng một thứ cũng được, nhưng ăn cả  hai thứ chả trong một chén nước mắm, ta dễ thấy được hoàn toàn vị thơm  ngon, nhất là thứ chả băm mềm “đi” với thứ chả miếng sậm sựt tạo thành  một sự nhịp nhàng cho khẩu cái, ngồ ngộ, mà dùng có nhiều hơn một tí  cũng không thấy nản.
Có người lấy làm lạ sao chả của hàng bún lại  ngon hơn của nhà làm. Vì thế, những bà có tính hay nghi đoán rằng có lẽ  lúc ướp thịt, hàng bún chả có thêm “một thứ gì” (mà thứ gì đó hình như  là mỡ... cầy); nhưng nhiều người không nghĩ như thế và cho rằng tất cả  nghệ thuật làm cho chả thơm ngon là lúc đặt gắp chả lên lò than vậy.
Theo  lời các bà này thì chả nướng ở nhà phần nhiều hay nướng bằng than hồng  quá thành ra mỡ ở trong gắp chả rỏ mất cả xuống than, lắm khi lại bốc  lên và làm cháy mất cả thịt bên ngoài, mà thịt ở bên trong có thể nhiều  khi còn sống.
Những hàng bún chả rong không mấy khi làm thế: cái  lò của họ nhỏ (thường là những hộp bánh qui bằng sắt tây) và chỉ có một  chút than thôi.
Đặt mấy gắp chả lên, họ phe phẩy cái quạt cho  than cháy vừa hồng, thành ra mỡ trong chả không mất nhiều và chả thì âm  ‘, vừa vặn, không bị cháy, bên ngoài se mặt mà bên trong vừa chín. Thành  ra thơm như thế!
Chẳng biết bảo như vậy có đúng không? 
Nhưng  có một điều mà ai cũng nhận thấy rất rõ ràng là nước chấm của hàng bún  chả được chế hóa một cách rất tài tình, đặc biệt. Bún chả nổi vị chính  là nhờ đó: nước mắm không mặn, giấm pha rất vừa tầm, thêm một tí hạt  tiêu và ớt vào, chấm bún và rau ăn cứ êm lừ đi thôi, không bao giờ xóc  mà cũng không bao giờ cứng. 
Chính cái thứ nước chấm đó làm cho  người ta nhớ bún chả vô cùng, đã ăn một bận không thể nào quên được. Hơn  thế, có người lại còn ghiền nữa. Tôi vẫn nhớ đến tận bây giờ một bà cụ ở  Nghệ, trước đây, vẫn ra cất hàng ở nhà tôi, mê bún chả lắm, hễ chuyến  nào ra Hà Nội là y như phải ăn bún chả kỳ cho thỏa thích. Nghĩa là bất  cứ nhà nào mời bà ta xơi cơm gà cá gỏi, bà cũng khước từ, chỉ toàn một  ngày hai bữa bún chả - mà ăn cứ như thể là chan nước chấm...
Bún  chả có tiếng ở Hà Nội bây giờ không có mấy, không phải vì làm kém, nhưng  chính vì hàng nào cũng sàn sàn như nhau. Nhưng hàng bún ở trên chợ Đồng  Xuân ít khi vắng khách; các bà hàng phố, sau khi mua bán, thường vẫn  ngồi ăn uống tự nhiên trên những tấm ghế dài, trước những cái lò nướng  chả, khói bốc mù mịt và thơm phưng phức. Ai có tính ngượng nghịu, không  dám ngồi thưởng thức miếng ngon Hà Nội ở những chỗ đông người, có thể  tìm đến một cửa hàng bún chả có tiếng ở phố Gia Ngư - một hàng nho nhỏ  xinh xinh, khá nổi tiếng và đông khách lắm. 
Đây có lẽ là cửa  hàng bún chả thứ nhất ở Hà Nội, vì từ trước đến nay, bún chả chỉ gánh  bán rong ở đường hay bán quán ở trong chợ mà thôi. Ngoài bún chả, nhà  hàng này chỉ toàn bán quà Việt Nam như bánh tôm, chả ràn và thang, nên  những người thèm nhớ quà đất nước lấy làm thú vị, hay năng lui tới -  nhất là các bà, các cô xót ruột thường ưa thưởng thức những quà gì mát,  có giấm chua, có ớt và rất nhiều rau sống.
Trái với bún chả, món  cuốn, trước kia chỉ ăn vào dịp Tết và do người nhà làm lấy thì bây giờ ở  Hà Nội lại thường thấy bán rong ngoài phố - và bán gánh như bánh đúc,  bánh tro, bánh bèo, bún chả hay cháo sườn.
Ăn món này, được một cái là lạ miệng, chớ thực ra thì không biết thế nào là ngon đặc biệt.
Bởi  vì cuốn quanh quẩn chỉ có mấy thứ: tôm, thịt, củ cải khô và vài thứ rau  như mùi, thơm cùng với bún cuộn vào trong một lá rau diếp, ăn với giấm  cái và chấm nước mắm cà cuống, nên phần nhiều cái ngon không được trội  hẳn, nhưng không phải vì thế mà món cuốn không làm cho ta thích thú.
Tôi  thích cái thứ cuốn chính do tay mình cuốn lấy, dùng bún “con bừa” mỗi  miếng to độ bằng con dao bài,  cho thật vừa giấm cái, tay thì gắp món  này món nọ mà miệng thấy thèm được ăn ngay.
Giây phút chờ đợi đó  làm cho cái vị ngon của cuốn tăng thêm lên nhiều. Chấm vào chén nước mắm  cà cuống rồi đưa lên miệng, cuốn đem lại cho ta một cảm giác dịu hiền,  mát ruột, ăn một rồi lại muốn ăn hai - mà ăn thì ăn to mới thú, ăn cuốn  mà nhỏ nhẻ thanh nhã phần nhiều là mất ngon đi.
Đó cũng là một sự đáng tiếc cho những người thích ăn ngon vậy.
Trái  với cuốn, thang lại càng ăn cho thật nóng rẫy lên bún chần kỹ đơm ra  từng bát rồi trứng tráng, giò thái chỉ, thịt gà băm với nấm hương, ruốc,  tôm he, rau răm cũng băm nhỏ; giữa, một hai miếng trứng muối đỏ như hoa  lựu: tất cả những thứ đó tạo thành một bức họa lập thể có những màu sắc  rất bạo mà lại ưa nhìn trông vui mà lại quý.
Quý, nhưng mà làm  cho thang ngon, nhất định là phải nhờ ở nước dùng nấu cách nào cho thật  ngọt, mà đừng béo quá, lúc chan vào bát bún nóng cứ bỏng rẫy lên. Lúc  đó, một chút mắm tôm cà cuống đệm vào làm tăng vị của thang lên đến cái  mức ăn ngon gần như “không thể nào chịu được”, nhất là thỉnh thoảng ta  lại đệm vào một miếng củ cải trắng nõn trắng nà, ngâm nước mắm tốt, nhai  cứ giòn tanh tách.
Trước kia, thang và cuốn là hai món ăn quý, chỉ dùng vào ngày giỗ chạp hay trong dịp Tết - vào hôm hóa vàng. 
Nhưng  bây giờ thì thang và cuốn đã được bình dân hóa, ngày nào cũng có bán ở  các cửa hiệu, ở chợ, ở các hàng “cơm tám giò chả” và bán cũng vẫn chưa  được lấy gì làm đắt; tuy vậy, thang và cuốn cũng vẫn chẳng lấy gì làm  phổ thông.
Kể về quà bún, mà phổ thông hơn cả, là bún riêu. Thứ  bún để dùng trong món quà này không phải là bún lá nhỏ sợi, mà cũng  không phải là thứ bún “con bừa” để ăn cuốn, nhưng là một thứ bún to sợi  hơn một chút chế tại vùng Mơ, Vẽ, không trương lên như bún khác.
Không  nhiều, một bát bún riêu chỉ năm hào, một đồng thôi, nhưng không phải vì  thế mà không đẹp mắt. Bún óng mướt; chan riêu nóng lên trên, lấp la lấp  lánh, màu gạch cua sắc tím điểm những chấm vàng kim nhũ li ti giữa vài  cái dong cà chua hồng tái; rồi gia một tí mắm tôm vào, ăn với rau diếp  non thái nhỏ như những sợi chỉ xanh... Đó là một món quà cổ kính, có thể  bảo là quê mùa được, nhưng tôi đố ai trông thấy một mẹt bún riêu của  người bán hàng dâng lên trong khói xanh nghi ngút mà lại không thèm và  bảo “quà Việt Nam rẻ, không cầu kỳ mà quả là ăn ngon ra dáng!”
Cũng  làm với thứ bún to sợi đó, còn quà canh bún nữa, cũng nấu với cua đồng,  nhưng thêm mấy món rau rút ăn mát mà làm tăng cái ngọt của chất cua  đồng lên bội phần. Nhưng đây là một cái ngọt chất phác của đồng ruộng,  một cái ngọt thật thanh, một cái ngọt khác hẳn với cái ngọt của bún bung  hơi ngậy.
Ai thích ăn quà bún mà xao những mỡ lên thì nên nếm  món này; có bún mát, có nước dùng ngon, điểm mấy miếng đu đủ; dăm sợi  dọc mùng, vài miếng sườn, nấu với cà chua và một chút nghệ óng ánh một  màu vàng vương giả trông thật là vui mắt.
Nhưng mà đẹp mắt hơn và  được nhiều người thèm hơn nữa có lẽ là bún ốc. Đó là một thứ quà, có  thể bảo là đã đạt được tới cái đích nghệ thuật ăn ngon của người Hà Nội.
Ờ,  ta cứ thử ngồi mà nghĩ thì có thứ quà gì lại lạ lùng đến như thế bao  giờ? Chỉ mới trông thấy người đàn bà gánh hàng đi qua trước mắt, ấy thế  mà ta đã bắt thèm rồi, bao nhiêu thóa tuyến đều như muốn làm loạn, không  ngớt tăng cường nước miếng của ta.
Nhất là khi người bán hàng đỗ  gánh xuống, xếp những khoanh bún trắng to bằng đồng bạc lên trên cái  mẹt đệm một tờ lá chuối xanh, thì có thể nói ta gần như không thể chờ  đợi lâu hơn nữa, phải ăn ngay không có thì khổ lắm.
Ấy là vì cái  món ốc lõng bõng trong bát giấm nó quyến rũ người ta một cách thi vị  quá: ốc béo cứ mọng lên; bỗng đậm, lại loáng thoáng dăm nhát khế, vài  cái dong cà chua ngầy ngậy; nhưng tất cả những thứ đó có thấm vào đâu  với làn váng nổi lên trên liễn giấm, óng a óng ánh vàng thắm như vóc  nhiễu... 
Gắp một khoanh bún lên chấm vào nước bỗng, hay húp một  tí bỗng đó rồi gắp một con ốc lên điểm vào, anh sẽ thấy rùng mình một  cách sảng khoái vì cái chất anh mới húp vừa thơm vừa ngậy, rơn rớt chua  lại cay đáo để là cay.
Ăn xong một mẹt bún như thế, nhiều khi  chảy nước mắt ra, như khóc. Nhất là các bà các cô thì ngượng quá, nhưng  có biết đâu rằng nhiều khi giọt lệ đó, có người lại còn thấy ý nghĩa hơn  giọt lệ tình, mà ta vẫn thấy nhắc nhở trong những tiểu thuyết hạ giá ca  tụng những mối tình đau ốm.
Ai muốn thanh cảnh, chỉ ăn bún với  đậu chấm nước mắm chanh ớt cũng thấy hay. Bún ăn với lòng là một món quà  bây giờ phổ thông ở các cửa chợ và dân các phố đông người qua lại;  thưởng thức với mắm tôm, chanh ớt, lòng tràng, ruột non, cổ hũ và gan  phổi, cũng là một thú đặc biệt - mà giá có một chén rượu đưa cay, cũng  chẳng... chết ai!
>>> Chả cá
<<< Gỏi
>>> Chả cá
<<< Gỏi

 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét