Không ai ngờ được, mấy ngày tôi loanh quanh ở Phú Thọ, thấy người ta ăn sâm cầm tiến  vua rào rào, ngay trong những buổi năm cùng tháng tận của 2006 – Bính  Tuất niên này. Theo dõi một toán thợ săn du sơn du thuỷ, đì đoàng súng  nổ hai ngày, tôi đã tận mục cảnh chim sâm cầm tiến vua được ăn tơi bời  trong các đám nhậu, máu chim loang nhiều mặt nước ao đầm rồi bị dầm  trong hũ ngâm rượu của cánh trọc phú thích làm thịt cả trời xanh…
Loài chim quý hiếm
Nghĩ  lại thì cũng thấy thương ông vua Tự Đức (1848-1883), vì hiếm con, ông  có chỉ dụ bắt người dân ven Hồ Tây hằng năm phải cung tiến 10 đôi chim  sâm cầm kỳ diệu để “tráng dương, bổ thận”... Không phải tôi thương vì  ông sớm phải toan tính cho cái khoản kia.
 Thương vì làm vua mà  ăn chim cá tiến vua cũng chỉ có cá anh vũ với chim sâm cầm (Vải Quang,  húng Láng, ngổ Đầm/ Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây). Để đến nỗi, chính sử  viết: năm 1870, vì sự phản đối kịch liệt của dân thôn và “chính quyền  cơ sở” ven Hồ Tây (trước những hệ luỵ vì phải cống nộp đặc sản chim sâm  cầm gây ra), vua Tự Đức đã dằn lòng bãi bỏ lệnh cống nạp chim tiến vua.  Rõ khổ.
Người ta bảo, cái nôi chim sâm cầm quý bị bắt đem tiến  vua là Hồ Tây, cái chốn vừa linh thiêng vừa hào hoa của đất rồng bay  nghìn tuổi. Nơi con cái anh vũ được bắt để tiến vua là ngã ba Hạc, ngã  ba sông tiền sử của nước Nam (gần cầu Việt Trì, tỉnh Phú Thọ hiện nay).
 Con  cá ấy nó ăn rễ cây chiên đàn nghìn tuổi ở miền đất huyền thoại rồi ngấm  tinh tuý của đất trời mà nên thiêng nên quý. Con chim sâm cầm cũng vì  ăn củ nhân sâm ở trên núi Trường Bạch xứ Cao Ly phương Bắc mà thành món  tiến vua.
Chuyện kể rằng, cộng đồng người dưới chân Trường Bạch  Sơn, năm ấy, vì dịch bệnh, sắp đi vào tuyệt diệt. Tiếng khóc lóc rền  vang  mặt đất, trên bầu trời, những đám mây đỏ như máu cũng đứng im chết  chóc.
Bấy giờ, có cô con gái xinh đẹp, là con một bác thợ săn  già dưới chân Trường Bạch. Cô quá thương xót cho bà con, người thân đang  tuyệt vọng kêu khóc. Lại  nghe kể: trên núi tuyết, có một loài chim với  sức khoẻ kỳ lạ, thịt nó có tính năng bổ dưỡng đến nhiệm màu. Là bởi vì  nó sống và ăn một loài cây mảnh mai, ưa bóng râm, thích khô sợ nước trên  núi Trường Bạch xa xôi.
Loài chim nhỏ (sâm cầm) bay lên trời với  đôi cánh dũng mãnh thì cô gái rất biết, bởi bố cô và cả ông cô đều là  thợ săn lành nghề. Nhưng con chim ấy nó ăn củ rễ cây gì? Cô đã lang  thang nhiều ngày trên đỉnh núi cao lạnh giá hoang dấu chân người ấy để  theo dõi xem loài chim nhỏ dũng mãnh kia ăn cái rễ củ cây gì.
 Cuối  cùng, cô gái quả cảm đã mang được cái rễ và củ cây có hình đứa trẻ  (nhân sâm) mà loài chim nhỏ vẫn ăn xuống núi Trường Bạch, thứ củ rễ thần  kỳ đã cứu được cả cộng đồng. Loài chim bí ẩn ăn cả tạ cả tấn nhân sâm  để lớn lên và để có sức khoẻ thực hiện hành trình di trú dọc quả đất nọ,  từ bấy được gọi là sâm cầm (loài chim ăn rễ và củ cây nhân sâm).
 Có  phải vì thế mà, đến thế kỷ thứ 19, tại Việt Nam, trong chỉ dụ của một  vị vua (Tự Đức) gửi Hà Nội có ghi như sau: “Cứ như lời tâu thì sâm cầm  là món ăn ngon, lại là thứ thuốc rất bổ nên sắc cho Tỉnh thần Hà  Nội sức bảo dân làng Nghi Tàm hàng năm đến mùa phải có mười đôi chim  tiến cống càng sớm càng hay”.
 Thế là từ năm Tự Đức thứ 17 (1847), Nghi Tàm phải cống sâm cầm.
Cứ  đến hẹn lại lên “bầy sâm cầm nhỏ/ vỗ cánh mặt trời” ở ven Hồ Tây (như  lời bài hát quen thuộc về Thủ đô) suốt hàng nghìn năm qua; cho đến gần  đây, người ta tàn sát sâm cầm Hồ Tây nhiều quá, nên loài chim nhạy cảm,  mong manh này nó chuyển “bến ghé thăm Việt Nam” của mình về hai tỉnh ven  kinh đô là Vĩnh Phúc, Hà Tây.
Thông tin thú vị và buồn buồn: năm  trước, có nhà khoa học lên tivi tiết lộ với quốc dân đồng bào rằng, Sâm  cầm hãi thủ đô quá nó bay như một cơn mưa màu đen về cái Đầm Vàng rộng  rãi bình yên trên Lập Thạch, Vĩnh Phúc.
Cánh thợ săn ồn ồn kéo lên trúng đậm ở Đầm Vàng, nước hồ loang máu đỏ của loài chim đen nhức tiến vua.
Nghe  đâu, hai năm nay, đàn sâm cầm đã tủi phận nắn con đường thiên di tránh  rét của mình (từ phương Bắc dọc xuống phương Nam của quả địa cầu và  ngược lại) cho nó có lộ trình nghỉ -  tiếp nhiên liệu ở vùng đất Tổ Phú  Thọ.
Tôi tạm thời không nói chim về cái đầm nào trên đất huyện  Cẩm Khê, để tránh cho loài sâm cầm di cư tội tình của các vị vua chúa  phong kiến bị một phen thảm sát nữa.
Chuyến tàn sát
 Năm  tao bảy tuyết hẹn hò, từ tháng 10 Dương lịch cuối năm trước đến tháng 2  đầu năm sau, là mùa giá rét, sâm cầm gọi nhau từ ải Bắc ghé qua châu thổ  Bắc bộ của chúng ta, tôi lại tìm đến đám thợ săn.
 Lương, SN  1967, là một tay được cơ quan hữu trách cấp giấy phép sử dụng súng săn.  Nhưng hắn đã dấn lên làm một cái nghề trái pháp luật là buôn bán, sửa  chữa và sử dụng rất nhiều loại súng khác nữa (cùng với thuốc súng, đạn  chì). Các chuyến đi săn không tiền khoáng hậu của hắn là một cái gì thật  đau lòng với những người yêu thiên nhiên hoặc có chút kiến thức về bảo  tồn.
Khuôn mặt hắn cháy rạm bởi một lần rang thuốc súng, bị bỏng  nặng (xem ảnh). Chúng tôi đi qua thị trấn Đông Phú, ngược các xã Phú  Lạc, Tình Cương, qua mãi lên Tiên Lương, giáp tận Yên Bái. Trời lạnh,  sương mù và gió rét căm căm.
 Những hồ nước đọng câm lặng, cỏ năn  cỏ lác trụi thùi lụi, chỉ dạt trôi đám bèo tãi như lớp váng bẩn. Bầy  vịt nhà thỉnh thoảng nhao lên một chặp với mớ lông cáu bẩn làm mặt hồ  khẽ thoáng chau mày.
 Con đường quê nâu xám uốn lượn cùng đám  khói mục đồng lơ mơ nhả lên trời. Sâm cầm giờ hiếm hoi lắm. Nhưng đi qua  những triền đồi cằn sim mua trung du với những con vạc, con giang  (chim) có sải cánh dài cả mét (nặng khoảng 2kg/con), Lương cũng chẳng  thèm bắn.
 Kỷ lục của đời thợ săn chim của Lương đã có, ấy là năm  ngoái hắn bắn được con ngỗng trời nặng 7kg. Với hắn, đám chim trời còn  nhiều nhặn đó lúc nào cũng nằm trong nòng súng của mình rồi, muốn dốc ra  lúc nào để làm thịt thì lấy thôi. (Mỗi khi bắn giang hay cò, vạc, rất  tự nhiên, Lương và đồng đội nói, kiểu như: “Để tao lấy con này ăn tạm”;  “Mày ra cây đa cuối làng lấy con vạc về ăn”!).
 Mãi rồi, đám  thợ  săn cũng chỉ cho tôi thấy, sâm cầm kiếm ăn lùi lũi, nó bơi như đám củi  mục trên mặt nước. Sâm cầm bơi lặng lẽ đến mức, ngay cả khi nó nhẩn nha,  mơ mộng kiếm ăn cùng chúng bạn trên mặt đầm, qua ống nhòm, tôi vẫn thấy  được cái đầu đen, cặp mỏ đỏ hồng của nó in hình non tơ xuống mặt đầm.
 Ao thu lặng lẽ nước trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến chắc cũng chỉ tĩnh đến thế là cùng. Tất cả, êm đềm như trong cơn mơ.
 Cho  đến lúc phát súng bắn đạn dia kinh hoàng của một thợ săn dền vang. Một  cô nàng sâm cầm gục đầu nằm nổi luôn trên mặt nước hồ, nơi mà cách đó  nửa giây nó còn lơ đãng với trời mây non nước.
 Nhóm sâm cầm 3  con còn lại cùng hốt hoảng nhao lên mặt nước. Phát súng thứ hai chát  chúa.  Sâm cầm rơi êm đềm xuống mặt đầm. Phát súng ấy là phát súng đón  đầu, đạn chì được vãi trên chín tầng mây để bắn chim bay (đám thợ săn có  câu “quân tử bắn chim bay, chứ không ai đi bắn chim đậu). Lông sâm cầm  khi đã bị hạ sát đen nhoay nhoáy, đen như nhựa đường vừa đun sủi.
 Sâm cầm thật tội. Bởi nó là giống chim lành hiền đến ngu ngơ nhất hạng. Lương bảo tôi:
-Sâm  cầm nó dại lắm, vả lại nó là giống chim quý, đang ngày càng hiếm, nên  thợ săn đã nhìn thấy con nào là hầu như con ấy bị… bắn chết. Đã bắn là  chết. Đã thấy là phải bắn!
 Thật ra thì chim di cư, con nào cũng  lành hiền đến ngu ngơ thế. Có lẽ vẫn theo thói thường: khách du lịch Tây  bao giờ cũng gà tồ hơn đám khách “ri” xứ mình. Hoặc có lẽ vì: ở đám  chim di cư như sâm cầm, nó đến từ các nước bạn xa xôi, ở đó người ta  không săn bắn dữ dằn, tận diệt như ở xứ ta.
Mỗi năm ghé qua Việt  Nam một lần, chim di cư chưa kịp thích nghi hoàn cảnh nhẫn tâm khắc  nghiệt thì đã bị hạ sát sạch sành sanh. Sạch sành sanh vét cho đầy túi  tham.
 Đến nỗi, có lần, Lương bắn một con chim gì rất to, hắn làm  thịt để chén chú chén anh thì thấy chân chim đeo một cái vòng có chữ  USSR (chiếc vòng của tổ chức nghiên cứu chim từ Nga họ gắn vào). Lương  vứt bỏ cái vòng, cắt chân chim cho vào ngâm rượu tuốt.
Hắn có tới  cả nghìn cái chân chim di cư trong bình rượu hổ lốn giữa nhà. Lương vô  cảm còn là vì câu chuyện bảo tồn, tình yêu - trách nhiệm với thiên nhiên  còn là một cái gì đó quá xa xỉ với hắn.
 Cái con cò, con giang  nó khôn ranh như thế mà còn bị bắn chết, nữa là sâm cầm. Cò nó nhìn thấy  ai mặc áo rằn ri (trang phục thường gặp ở thợ săn)  là nó bay tá hoả.  Bởi vì cò nhớ mặt bọn “kẻ thù” vác súng.
 Sâm cầm thì chẳng cần  nhớ nhung gì đám áo rằn ri hết bởi nó chỉ là vị khách đi qua Việt Nam  thôi. Có lẽ chim tiến vua tha hương kia nó đang bận hoài nhớ những núi  sâm quý trên Trường Bạch ở Cao Ly xa xôi?
 …Chợt có một đàn sâm  cầm sà xuống, lông nó đen như hắc ín, loáng ướt nhóng nhánh cả một góc  trời. Sâm cầm hạ cánh xuống mặt đầm, cứ lặng lẽ bơi như một mẩu gỗ mục  mà kiếm ăn.
 Lương vừa ngồi rình sâm cầm, vừa lôi búa đinh, một  cái chày nhỏ bằng ngón chân cái làm bằng gỗ nghiến với vô số cát tút  đồng vàng ươm, mỗi thỏi to bằng ngón tay cái người lớn ra nhồi đạn.
 Súng  hai nòng, bắn đạn dia, vòm đi của đạn to bằng cái nong, bắn trượt cũng  thành… trúng. Có khi đàn cò bay qua, hắn chĩa sung lên giời nổ một phát,  cò trắng rơi như cánh diều đứt dây trắng toát cả một góc ruộng ngô đất  cọ.
 Lương lôi cát tút ra, một tay cầm hũ thuốc nổ xám xịt, miệng  cắm điếu thuốc đang đở lửa; tay kia Lương cầm một ngọn nến đã châm. Cái  mặt mới bị thuốc nổ làm cho cháy xém của anh ta không biết sợ là gì,  hắn liều như một chiến binh cảm tử.
 Đến giờ, tôi cũng không hiểu bởi tại làm sao mà lúc ấy tôi có gan ngồi cạnh hắn để chụp ảnh (với lý do làm… kỷ niệm)!
 Nến  được nhỏ vào đáy ngoài của cát tút lớn. Rồi đến “phôi” nhựa trắng, nến,  giấy, rồi lại một lượt những giọt nến sáp bít phía trên. Cuối cùng, hắn  mở hộp đạn chì với những viên to bằng hạt đậu nành ra, dùng muỗng múc  mỗi cát tút một muỗng đạn chì.
 Trong áo di lê của Lương có búa  đinh và một cây chày gỗ nhỏ. Hắn cắm chày vào cát tút, dùng búa gõ nhẹ  cho đạn và các phụ gia nén chặt. Đạn được gài vào bao, bao đạn thắt  quanh người (xem ảnh), trông đám thợ săn như lũ… xâm lăng đằng đằng sát  khí trong phim cái thời “Mùa nước nổi”, “Cánh đồng hoang” độ trước.
 Mấy  chú sâm cầm lặng lẽ rơi như giọt nước lớn màu đen xuống một mặt đầm ở  cách thị trấn Đông Phú vài cây số. Lương nín thở, Bảy tụt quần áo, mặc  mỗi cái quần sà-lỏn. Gió mùa đông Bắc vẫn giá rét căm căm. 
Vì  cái đầm nổi tiếng nhiều sâm cầm này, hôm nay đã bị đám thợ săn nào đó nổ  súng gây kinh động một lần lúc sương mù còn lãng đãng. Sau khi điều tra  biết được bối cảnh đó, Lương và Bảy quyết định đổi chiến thuật: dẫu ngu  ngơ khù khờ cực độ thì sâm cầm cũng trở nên khôn ngoan sau những lần  thấy đám bạn đồng hành đi hết quả đất của mình bị hạ sát.
Không  thể bơi thuyền ra bắn sâm cầm được nữa, chúng nó sẽ bay mất. Bảy mặc sà  lỏn thả mình xuống đám bùn một cách từ từ, rồi người hắn lút trong làn  nước bầy nhầy váng bọt. 
Lương phồng mồm thổi một cái săm xe ôtô  (4 chỗ) cũ thành chiếc phao nhỏ. Lương ném xuống cho Bảy một tàu lá  chuối nữa. Săm xe để kê nòng sung và bơi, lá chuối để nguỵ trang. Bảy  lùi lũi tiến ra phía chú sâm cầm cô độc trên mặt đầm lặng phắc.
 Sương  khói tới mức, cả đàn sâm cầm sà xuống, nhưng giờ chúng tôi chỉ nhìn  thấy có một chú chim đen nhức. Đám trẻ ở xóm nghèo ngồi trong bụi tre  phóng tầm mắt hiếu kỳ ra nín thở theo dõi cuộc săn sâm cầm. Một bà cụ  mắt mũi lem nhem, đi qua thở dài: gớm, con chim có một dúm thịt mà cái  nhà bác ấy phải trần truồng lúc rét chết cò thế này ở dưới đầm. Hết khôn  chúng nó dồn ra dại.
Tiếng súng chưa kịp nổ, Bảy còn lạnh giá  dưới mặt nước đầm nhớt nhèo năn lác cũ thì bầy sâm cầm nhỏ đã vỗ cánh  mặt trời. Lần này là ngoại lệ, sâm cầm dại dột cũng đã thoát chết để  tiếp tục hành trình từ Siberia (Nga) xuống bán đảo Triều Tiên, qua Trung  Quốc, Hồng Công, qua Việt Nam, Thái-lan, Indonesia, Australia (và ngược  lại) của mình.
 Bỗng dưng, sự nhăn nhó rét sun thịt da của Bảy lại gây cho tôi một niềm vui khó tả: bầy sâm cầm thoát tử nạn.
 Tôi  luôn tin đó là một loài chim thiêng, nó đi vòng quanh địa cầu để làm  một sứ mệnh gì đó, chứ không phải là để cho người ta săn bắt phục vụ  những cái thú phàm phu của mình như hiện nay.
 Báo chí đưa tin:  một nhóm nghiên cứu tại Đại học California đã theo dõi hơn 400 tổ sâm  cầm ở British Columbia (Canada) trong 4 năm và họ phát hiện ra rằng,  loài chim lơ ngơ ngốc nghếch trước sung đạn của cánh thợ săn (ở Việt  Nam) này có một thứ giác quan kỳ lạ, như là linh giác trong nhận thức.  Nó kiểm soát được rất nhiều hiện tượng tự nhiên xung quanh nó, trừ những  họng súng đạn dia bắn trượt cũng thành trúng của Lương và Bảy ở các  vùng đầm Sông Thao…
Lương cầm xác 3 con sâm cầm, gương mặt sạm  cháy vì thuốc súng săn với bộ quần áo rằn ri, bao đạn khổng lồ khiến hắn  không có dáng dấp gì của một người được ăn món thời trân cống tiến ông  hoàng bà chúa ngày cũ.
Mấy cái quán ở vùng Văn Khúc, Hiền Đa,  Đông Phú thỉnh thoảng cũng có bán dăm ba con chim sâm cầm do thợ săn ở  các vùng quê vớ được không nỡ ăn thứ đắt đỏ. Họ bán có khi hai chục  nghìn, có khi ba chục nghìn một con sâm cầm nặng 4-500g.
Trung  bình một con sâm cầm khi đi qua vùng Cẩm Khê, Phú Thọ, nó có trọng lượng  từ 5-9 lạng. Nếu chịu khó đặt hàng các quán xá vùng Sông Thao hiện nay,  bạn có thể mua được vài con sâm cầm, nếu “phục kích” đúng dịp sương mù  giá rét cuối năm, với giá từ 80-120.000 đ/con.
Khi thì người ta  giăng lưới bắt được sâm cầm còn sống, chủ quán có thể cắt tiết chim cho  bạn xem ngay trước mắt. Khi chim đã bị bắn chết thì họ thịt sạch sẽ để  trong tủ lạnh, ngăn đá từ trước. Cũng có khi họ ngâm sẵn sâm cầm trong  bình rượu (ngâm một năm trở lên mới uống), con chim dang cánh bơi trong  rượu mạnh.

Tại vùng Cổ Tiết (Phú Thọ) có ông cán bộ quân đội về  hưu rất mê săn bắn, ông thu gom chim sâm cầm cả vùng, cứ ngâm các hũ  rượu hai con sâm cầm/hũ, bán tiền triệu cho cánh trọc phú ở Hà Nội.
Trên  mạng, không tin bạn cứ gõ chữ “chim sâm cầm”, sẽ gặp mấy cái tửu quán  rao bán rượu chim sâm cầm với những công dụng trời ơi đất hỡi rất là  quyến rũ. Có lẽ, chỉ cô gái theo bóng sâm cầm trên Trường Bạch Sơn huyền  thoại nọ mới biết thật giả “rượu dân tộc” ướp ủ sâm cầm trong thời buổi  này…
Riêng đám Lương, Bảy mà tôi đang lếch thếch lặn lội theo,  bọn hắn bắn sâm cầm rồi toàn đem rán, nướng, hầm thuốc bắc, uống rượu  hết.
Mùa sâm cầm năm nay hiếm quá, 3 con chim mới bắn được, Lương  đem moi ruột rửa bằng rượu, cồn sạch sẽ rồi ngâm tất trong hũ lớn. Gọi  là “tửu táng” loài chim tiến vua dằng dặc bao huyền thoại, từng được sử  cũ (ví như nhà bác học Lê Quý Đôn) trân trọng ghi chép.
Mấy chàng cán bộ xã, cán bộ huyện vùng Cẩm Khê thì ăn sâm cầm như cơm bữa.
Thật  ra, người nông dân trong khu vực chẳng thiết tha gì với giống chim này,  bởi lúc người ta chưa săn lùng ráo riết, bao đời nay họ vẫn đánh chén  sâm cầm mà chẳng thấy bổ béo ngon nghẻ gì nhiều.
Họ ăn sâm cầm như ăn con giẽ giun, con mòng két, con cuốc cuốc (đỗ quyên).
Cho  nên, vào cái buổi sốt sâm cầm này, mỗi khi tóm được sâm cầm bằng bẫy  thủ công hay sung kíp (tự chế), cung nỏ, thậm chí súng cao su, bẫy nhựa  mít, họ đều đem bán lấy mấy chục nghìn, cho con chim đen (theo cách gọi  của họ) phục vụ đám khách “giàu quá hóa rồ” (theo cách nghĩ của họ).
Lương  cũng là người Cẩm Khê, hắn cũng ăn sâm cầm từ nhỏ cùng cha mẹ. Nhưng  hắn khác những người nông dân vùng Sông Thao ở chỗ, hắn có niềm tin son  sắt vào giá trị lớn lao với sức khỏe con người của sâm cầm.
Hắn  uống tiết sâm cầm với một vẻ mặt mãn nguyện, khoái trá không bút mực nào  tả nổi. “Tớ nghiện súng săn, tối ngủ để súng ở đầu giường. Nhóm của tớ  mỗi thằng phải ba khẩu, một khẩu một nòng, một khẩu hai nòng, một khẩu  bắn tỉa (súng hơi, có đầu ruồi để ngắm, súng săn lớn không cần… ngắm).  Toàn chơi súng Pháp, có lúc bán cả xe máy để mua súng.
Một ngày  một không nổ một quả (bắn chim, thú) thì người bứt dứt không chịu nổi!” –  Lương thổ lộ khi đã ngà ngà rượu chân sâm cầm.
Cái hắn nghiện  hơn là uống tiết sâm cầm. Máu của loài chim nước, lại là chim di cư  xuyên lục địa này rất tanh, nhất là trong đại họa cúm gia cầm này, khả  năng nó bị cúm là cực lớn. Song Lương và Bảy (cùng đồng bọn) chẳng quan  tâm đến điều đó.
Thịt sâm cầm bọn hắn ăn theo truyền thống của  người Sông Thao trong thời kỳ sâm cầm còn bay như cơn mưa rào đen khắp  ao đầm, sông hồ trung du. Nghĩa là họ luộc sâm cầm với nước gừng (nay  thêm quế, thảo quả) cho đỡ tanh, rồi đem sâm cầm ra nướng hoặc quay.  Trước khi quay giòn, nhớ cắt lấy cặp chân sâm cầm ngâm rượu.
Lương dạy tôi cách phân biệt sâm cầm với các loài chim khác:
-Có  một cách cực kỳ đơn giản: không loài chim nào trên thế giới có cái chân  giống lũ chim ăn nhân sâm này. Các ngón chân của nó xòe, thắt như củ  sâm trên núi ấy.
Ngón chân giữa (dài nhất) của nó khi xòe rộng ra  mặt bàn, nó gồm ba hình tròn xoe đặt thành hàng dài từ đầu ngón đến gốc  ngón. Ba hình tròn như đồng xu đặt liên tiếp nhau (ba cái màng đạp nước  của nó đều hình tròn xoe) trên một ngón chân – đó là sâm cầm!
Những  chi tiết khác thì rất dễ: Đầu và cổ chim lông đen, lưng và bụng lông  xám chì, mắt màu nâu đỏ. Mỏ chim có búp lông (có khi màu trắng), chân  màu lục nhạt đốt thắt trông giống như những đoạn của củ sâm...
Quý  nhất là sâm cầm mà ở đầu nó có túm lông màu đỏ, nghe nói bổ dưỡng gấp  ngàn lần (khi tiến vua hoặc tiến ai đó, tóm lại là khi “hiến hưởng”) so  với sâm cầm đầu đen. Nhưng cũng là chục năm nay bắn sâm cầm, tớ chưa gặp  con nào đầu đỏ, có thể bọn tán ăn nó chỉ bốc phét thế cho nó huyền bí  thôi.
Hóa ra, khi trò chuyện mới vỡ lẽ ra, dưới cái mặt xạm cháy  vì khói súng giữa thời bình, Lương cũng là người ưa tìm tòi. Hắn bắt tôi  hứa phải tặng hắn quyển Chim Việt Nam xuất bản từ mấy chục năm trước  của nhà “điểu học” - GS Võ Quý, sau khi tôi tiết lộ là giá sách nhà tôi  đang có.
Săn chim trở thành cái thú phàm phu của nhiều người dân xứ này.
Lý luận của Lương rất có lý:
-Tớ  còn giữ cả cuốn “tạp chí nội bộ” của những người thợ săn ở Hải Dương,  trích nghị định quy định gì đó về săn bắn, sâm cầm là loài được phép săn  bắn.
Sâm cầm chỉ quý trong sử sách và trong thơ văn thôi, chứ nó  là chim nước, chim di cư, có gì đâu, nếu không bắn nó về đen đặc bầu  trời. Nếu không là thứ tiến vua, có khi sâm cầm chỉ có giá 3000đ/con -  bằng giá một chú cò bay lả bay la từ trong cổ tích lên… thớt nhậu hiện  nay. Mà sâm cầm bắn mãi cũng chẳng hết, vì mùa đến, sâm cầm khắp thế  giới nó lại đi qua Việt Nam.
-Vả lại, bọn tớ bắn sâm cầm thế này  không thể giết hết sâm cầm được. Mà nhà nước phải bắt cổ cái giăng lưới  nó bắt chim bằng đài đĩa, mỗi tối bắt hàng trăm con cò vạc, giang, mòng  két, le le, sâm cầm hiện nay để phục vụ các quán nhậu chim trời ấy.
Nó  bắt tiệt hết cả núi rừng vào lưới. Vì nó ghi âm tiếng kêu của các loài  chim, dụ chim vào lưới rồi bắt cả tải. Bọn tớ đi bắn thế này là dạy cho  sâm cầm dại dột cách khôn ngoan. Tớ bắn vài lần, chim trở nên nhút nhát  hơn, thế là nó sống sót để tiếp tục bay về… Austraylia để mùa đông sang  năm nó lại về Việt Nam.
Súng nổ đinh tai thế này, giỏi lắm, mỗi lần rình mò bắn được vài con. Bọn giết hết chim phải là bọn đánh lưới!
-Tại  sao ông Lê Quý Đôn viết trong sách của cậu rằng chim sâm cầm là món  tiến vua. Thì độ ấy, con dân nước ta phải đi bắt chim cho vua đánh chén,  họ bắt bao nhiêu năm rồi, có làm sao đâu? Nay vua chúa phong kiến không  còn, tớ đi bắt sâm cầm về ăn (chim trời cá nước mà) cũng là hợp lý. Có  gì mà lo sâm cầm bị tuyệt diệt. Mà tớ không bắn thì rồi lũ chim di cư  này nó cũng đi nơi khác hết, chứ nó có ở Việt Nam đâu mà cậu tiếc –  Lương lý luận.
Lương ương bướng thích ngụy biện. (Rang thuốc súng  cháy mặt, cháy cả nhà, suýt bị công an tống giam hắn còn chả sợ, nữa là  lời hiệu triệu hãy thương xót giống chim huyền thoại của tôi).
Nhưng  Lương có lý, khi hắn cho rằng bọn hắn là dân chơi súng săn, bọn hắn làm  cho chim di cư khôn hơn, và việc bọn hắn bắn vài con chim cả ngày săn  sùng sục cũng chẳng thể làm cho chim quý bị tuyệt diệt được.
Lũ sát nhân phải là cánh kiếm ăn bằng nghề dùng máy móc, giăng lưới ranh mãnh kia.
Nhưng, nhìn cảnh hắn cầm xâu chim nặng cả yến, lòng tôi đau như xé.
Cảnh chiều nhí nhóa tối, Lương và Bảy đi một con thuyền điếu ngư ra giữa đầm như cú rình mồi.
Cò,  vạc, giang cùng chao lượn vừa là về tổ ấm, vừa là chuẩn bị cho chuyến  ăn đêm. Súng nổ rền, đàn chim táo tác, cánh chim rơi lả tả xuống mặt hồ.  Mặt hồ nâu đi toàn cánh vạc rộng, cánh giang chao nghiêng như một con  thuyền buồm bị đắm. Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm bị chọc  tiết.
Còn nhớ, mới đây, cư dân mạng từng bình luận tương đối  nhiều về số phận đàn sâm cầm hiện nay. Nhân xúc động chuyện nhiều người  nặng lòng với sâm cầm như thế, tôi mới cầm lòng chẳng đặng làm cái việc  hơi nhẫn tâm là theo chân thợ săn xem bắn… sâm cầm. Hóa ra sâm cầm vẫn  còn, còn không phải là ít.
Chỉ có điều rằng, cứ tình trạng này  thì rồi sớm hay muộn chúng ta cũng chỉ còn duy nhất cảm giác hoài niệm  với “Mưa sâm cầm” (tên một truyện ngắn có nhân vật chim sâm cầm rất ám  ảnh của nhà văn trẻ Lưu Sơn Minh).
Thôi thì ta tìm chim như thể  tìm em (tìm em như thể tìm chim/ chim bay bể bắc anh tìm bể Đông) trong  câu hát cũ: “Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay, bờ xa mời gọi. Màu  sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời...”. Nghĩ đến đây, sao mà thấy đau lòng!
Nhà báo: Đỗ Zoãn Hoàng